10 lý do phát tâm Bồ đề người học Phật cần hiểu
Mục Lục [Ẩn]
Chúng ta phát tâm Bồ đề dù một lần trong đời cũng sẽ là hạt giống cho muôn kiếp về sau có duyên thành Phật và ra khỏi luân hồi sinh tử. Trong Pháp thoại “Ý nghĩa phát tâm Bồ đề”, Thầy Thích Trúc Thái Minh đã giảng giải 10 lý do để chúng ta dũng mãnh phát khởi được tâm Bồ đề.
Vậy 10 lý do đó là gì? Kính mời quý Phật tử cùng theo dõi qua bài viết dưới đây!
1. Nhớ ơn sâu nặng của chư Phật
Chư Phật ba đời đều vì chúng ta mà hành Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp sinh tử, chịu bao khổ cực, hy sinh cả máu thịt, thân mạng để hóa độ chúng sinh. Như những câu chuyện kể về tiền thân Đức Phật xả thân cứu 5 mẹ con con hổ đói, cứu chim bồ câu, hy sinh mạng sống để cứu 500 thương buôn trên thuyền khi bị cướp tấn công,...
Không những thế, đời đời kiếp kiếp Đức Phật còn dõi theo từng bước đi của chúng ta và không lúc nào Ngài rời bỏ. Khi chúng ta tạo tội, Đức Phật xót thương, dùng phương tiện giáo hóa, cứu độ. Khi chúng ta đọa địa ngục, Đức Phật càng đau xót, muốn chịu thay khổ sở của chúng ta. Nhưng theo dòng nhân quả, nghiệp ai gây thì người đó chịu quả. Cho nên, Ngài không gánh chịu tội thay chúng ta được. Khi chúng ta được làm người, Đức Phật liền dùng phương tiện để giúp chúng ta gieo trồng thiện căn.
Những ai hiểu thấu được điều này mới thấy tâm thương chúng sinh và thâm ân sâu nặng của Đức Phật là lớn lao vô cùng, có thể nói là không thể kể xiết được. Bởi vì chỉ có Đức Phật mới giúp thân ta thoát khỏi luân hồi sinh tử khổ đau.
Vậy nên, để báo đền ơn mười phương chư Phật, mỗi chúng ta cần dũng mãnh phát tâm Bồ đề.
2. Nhớ ơn sinh dưỡng của cha mẹ
Đức Phật dạy ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ cao hơn trời biển. Chúng ta trôi lăn trong luân hồi, trải qua vô lượng kiếp nên không chỉ có cha mẹ kiếp này mà còn có cha mẹ nhiều đời trước.
Trong “Văn khuyến phát tâm Bồ đề”, Ngài Thật Hiền Đại sư dạy: “Thương thay cha mẹ sinh ta cực nhọc, mười tháng ba năm thai mang bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt. Mới được thành người, đã đặt hy vọng tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà nay ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn,...”.
Vậy nên những vị xuất gia hay những người tại gia đều phải nhớ công ơn trời biển của cha mẹ đời này và nhiều đời trước để từ đó phát khởi tâm Bồ đề.
3. Nhớ ơn của Sư trưởng
Cha mẹ sinh cho ta thân mạng hình hài nhưng nếu không có người thầy thế gian dạy dỗ, chúng ta chẳng thể biết lễ nghi phép tắc. Và cao cả hơn, không có Sư trưởng xuất thế gian răn dạy thì chúng ta chẳng thể thâm nhập, hiểu được Phật Pháp.
Ở đời có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Còn trong kinh Đức Phật dạy, vị trí vai trò của người Thầy rất quan trọng. Người Thầy dạy đạo là thay mặt Phật chỉ dẫn cho chúng ta con đường tu hành. Muốn thâm nhập được lời Đức Phật dạy phải thông qua người Thầy. Bởi vậy ân đức của Thầy tổ rất sâu nặng.
Một người đệ tử đối với Thầy mà lừa dối, không chân thành, không cung kính thì người đệ tử ấy không tu một pháp nào chứng đạt được và không một vị Bồ Tát, hộ Pháp, thiện Thần nào hộ trì cho người đệ tử phản Thầy.
Chính vì thế, để đền đáp công ơn Thầy tổ, chẳng còn cách nào khác là chúng ta cần phát quảng đại tâm Bồ đề tu hành giải thoát giác ngộ.
4. Nhớ ơn của đàn na thí chủ
Đây là ơn đức cần nhớ dành riêng cho người xuất gia. Đối với người xuất gia tu hành, trăm sự sinh hoạt đều nhờ vào thí chủ cúng dường. Cho nên người xuất gia phải biết đền ơn thí chủ. Người thí chủ nghĩ Tam Bảo là ruộng phước tối thượng, trong đó có Tăng bảo. Cho nên họ dành dụm tài vật lên chùa cúng dường thì người xuất gia phải biết đó là mồ hôi, nước mắt, có khi là máu, là tính mạng của đàn na tín thí. Cho nên người xuất gia tu hành phải biết trân quý, gìn giữ tài sản Phật tử cúng dường và phải phát nguyện tu hành chân thật để hồi hướng phước báu cho người thí chủ. Do đó người xuất gia phải phát tâm cầu Vô thượng Bồ đề rộng lớn.
5. Nhớ ơn chúng sinh
Từ lời Phật dạy, chúng ta biết rằng, mỗi chúng sinh có vô số kiếp luân hồi. Kiếp được làm người, làm trời, kiếp bị đọa trong súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ,… Chúng sinh trải qua vô lượng kiếp nên có vô số thân và có vô số cha mẹ cùng thân bằng quyến thuộc. Vậy nên tất cả chúng sinh trong pháp giới này đều có thể đã từng là cha, là mẹ của chúng ta. Kiếp này chúng ta được làm người, còn cha mẹ, anh em các kiếp có thể đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh chịu nhiều thống khổ.
Ngài Thật Hiền Đại sư dạy: “Cha mẹ mình có khi gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngã quỷ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Ta dẫu không thấy không nghe nhưng họ tất cầu cứu vớt”.
Hương linh cha mẹ, thân quyến của mình có thể đang khao khát và mong người thân ở kiếp người làm phước cho họ, cầu giúp cho họ… Cho nên, nhớ ơn chúng sinh mà phát tâm Bồ đề cũng là một trong 10 lý do mà Ngài Thật Hiền Đại sư chỉ dạy.
6. Nhớ khổ của luân hồi sinh tử
Nhờ trí tuệ của Đức Phật mà chúng ta biết rằng, từ vô thủy kiếp đến nay, chúng ta đã trải qua vô số kiếp tái sinh. Kiếp được làm người nhưng cũng có kiếp đọa làm súc sinh, ngạ quỷ.
Và chúng ta là dạng nghiện luân hồi, bao nhiêu kiếp rồi mà chưa chịu thoát, cứ say mê mãi mà không chỉ ra khỏi cái khổ của sinh tử. Vào cảnh khổ đau thì chịu bao thống khổ, vào cảnh sung sướng một chút thì đắm chìm không biết đường ra.
Khi vào địa ngục tra tấn thì một lòng quyết chí tu hành. Khi thoát khỏi địa ngục lại quên ngay những sự khổ đã chịu và lại tiếp tục tạo lại nghiệp như cũ, không có chút sợ hãi nào và rồi lại bị đọa lạc. Nỗi khổ của luân hồi sinh tử không có thế, với thiên nhãn giác ngộ của Đức Phật, luân hồi tái sinh còn khiến chúng ta thấy hổ thẹn. Bởi vì theo dòng nhân quả nghiệp báo, có thể đời trước là cha mẹ nhưng hết kiếp tái sinh có khi lại những người ác hại nhau. Rồi kiếp trước là mẹ, kiếp sau lại làm vợ, kiếp trước là cha mà kiếp sau là chồng. Không chỉ dừng ở đó, luân hồi sinh tử còn khiến chúng ta phải chịu những khổ khi ở trong thai mẹ, nỗi khổ khi lâm chung,... và muôn vàn nỗi khổ do ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo tác.
Vậy nên, chúng ta mới thấy luân hồi là vô cùng điên đảo, nhàm chán. Nhớ nghĩ về những nỗi khổ của luân hồi sinh tử thì chúng ta phải quyết thoát sinh tử và đây chính là lý do thứ sáu để phát tâm Bồ đề.
7. Trọng tính Phật trong tâm mình
Mọi chúng sinh đều có Phật tính. Nhưng chúng ta lại đem vật báu vô giá đó vùi xuống bùn vô minh mà không hề xót xa. Như Ngài Thật Hiền Đại sư có dạy: “Ngọc báu vô giá lún xuống bùn lầy mà nỡ coi như ngói gạch, không chút quý trọng”. Chúng ta cũng có viên ngọc vô giá như Phật nhưng tại sao mình lại là kẻ phàm phu, kẻ nghèo khổ, đi trong luân hồi? Chúng ta có quyền thành Phật tại sao mình không làm? Đó là ở chính chúng ta có chịu tu hay không.
Hiểu được giá trị và ý nghĩa của viên ngọc báu rồi, chúng ta nên quyết chí tu tập bằng cách vận dụng tất cả các thiện Pháp trong Phật đạo và đối trị tất cả tâm phiền não. Nhờ công đức tu tập đó thì bản tính Phật mới được hiển lộ. Cho nên chúng ta vì quý trọng viên ngọc báu này phải phát tâm Bồ đề tu hành, đừng để viên ngọc báu vùi trong bùn đen.
8. Sám hối nghiệp chướng
Ngài Thật Hiền Đại sư dạy: “...Hãy lấy Ngũ giới mà nói, thì mười người đã có đến chín kẻ vi phạm, bày tỏ thì ít mà giấu diếm lại nhiều. Ngũ giới chỉ là giới tại gia mà còn không giữ đủ, huống chi các giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, thôi thì khỏi nói. Hỏi cái tiếng thì nói là Tỳ kheo, hỏi cái thật thì hãy còn chưa đủ làm Ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ được sao…”.
Chúng ta biết rằng, từ vô thủy kiếp đến nay, chúng ta đã tạo vô số tội nghiệp. Thân thì sát sinh, trộm cắp, tà dâm, khẩu nói lời vọng ngữ, ý thì si mê, sân giận, tham lam. Những điều bất thiện ấy, khiến thân ta tích tập vô số tội lỗi, ác nghiệp khiến mình trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Vậy cách nào để tiêu tội chuyển hóa cho nhanh? Có rất nhiều phương tiện nhưng trong đó phát quảng đại Bồ đề tâm là phương tiện tiêu trừ tội lỗi có sức mạnh rất lớn.
9. Cầu Vô thượng Bồ đề
Bồ đề tâm là gốc của đạo, là chúa tể các thiện Pháp, là nhũ mẫu của chúng sinh. Các Đức Phật cũng đều do Phát Bồ Đề Tâm mà được thành tựu.
Tiền thân của Đức Phật Thích Ca trong vô số kiếp cúng dường chư Phật nhưng Ngài chưa được Đức Phật nào cho phát tâm Bồ đề. Đến thời Đức Phật Nhiên Đăng, Ngài mới được phát tâm Bồ đề và được thọ ký sau này sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta tu hành cầu thành Phật đạo mà không phát tâm Bồ đề thì chỉ có thể đoạn được hết tâm cấu uế để trở thành một bậc A la hán giải thoát, không đến được quả Vô thượng Bồ đề. Cho nên, phải là nhân của phát Bồ đề tâm, phát Bồ đề nguyện và thực hành Bồ đề hạnh mới có thể thành tựu được Phật quả, đạt được giác ngộ tối thượng. Từ đây, chúng ta hiểu rằng phát tâm Bồ đề một nhân duyên rất lớn để cầu thành tựu Vô thượng Bồ đề.
10. Làm cho Phật Pháp tồn tại lâu dài
Chúng ta biết rằng, giáo Pháp của Đức Phật sẽ trải qua ba thời kỳ: chính Pháp, tượng Pháp và mạt Pháp. Khi hết thời kỳ mạt Pháp thì giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca sẽ không còn tồn tại trên trần gian. Là người đệ tử Phật, nhận được lợi ích từ Phật Pháp, chắc hẳn ai cũng mong muốn Phật Pháp sẽ tồn tại lâu dài. Thế nhưng nếu không có người thực hành lời Phật dạy thì Phật Pháp sẽ hoại diệt nhanh chóng.
Cho nên Ngài Thật Hiền Đại sư dạy rằng: “Mỗi khi nghĩ ngợi, bất giác rơi lệ. Thân làm con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của Ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai hậu. Trời cao cũng không che ta nổi, đất dày cũng khó chở ta được. Tội nhân cực trọng, phi ta thì ai. Vì thế mà đau đớn không thể nhẫn nổi, nhưng toan tính thì lại không thấy có cách gì khác hơn, nên quên ngay tư cách quê kệch, phát liền tâm chí rộng lớn. Như thế thì dẫu không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì Phật pháp trong mai sau”.
Ngài khuyến khích chúng ta, xét đi xét lại mình đích thị là kẻ phàm phu. Nhưng hãy quên phàm phu của mình đi mà phát tâm rộng lớn để trở thành người đại trượng phu. Chúng ta nhờ Phật Pháp mà được thăng tiến, biết được chân lý thì mình mong cho Phật Pháp lâu dài, để cho con cháu mình, cho tất cả vạn loại đều được ơn nhờ. Muốn Phật Pháp được lâu dài, chúng ta phải phát Bồ đề tâm.
Trải qua vô số kiếp luân hồi, đời nay giữa muôn vạn chúng sinh mà chúng ta có được thân người, được tu học Phật Pháp, biết bỏ ác làm thiện thì đó thảy đều nhờ rất nhiều nhân duyên, mà trong đó không thể không kể đến ân đức sâu dày, từ bi của chư Phật, ân đức giáo dưỡng của Thầy tổ, ân đức dạy bảo của cha mẹ...
Chỉ bao nhiêu ân ấy, chúng ta thật khó lòng đáp đền và chỉ khi phát Bồ đề tâm, tu hành tinh tấn, mới mong báo đáp trọn vẹn thâm ân ấy. Mong rằng, mỗi người đệ tử Phật, khi đọc và hiểu được 10 nhân duyên này, chúng ta sẽ phát Bồ đề tâm thật dũng mãnh, kiên cố tu hành cho đến ngày thành tựu đạo quả giải thoát, cứu độ quần sinh.