Lời dạy của Đức Phật trước khi nhập Niết bàn giúp chúng sinh hạnh phúc
Mục Lục [Ẩn]
Lời di huấn cuối cùng của Đức Phật trước khi nhập Niết bàn đã trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho hàng hậu thế; là ngọn đèn soi sáng con đường đưa chúng sinh đến hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát. Trong giây phút cuối cùng, với lòng từ bi vô hạn, Đức Phật vẫn thuyết Pháp làm lợi ích cho chúng sinh.
Kính mời các bạn cùng tìm hiểu những thông điệp quý giá trong lời dạy trước khi nhập Niết bàn của Ngài, được ghi lại trong phần Ngoại Thuyết - kinh Mi Tiên Vấn Đáp, nói về việc Đức Phật thuyết bộ kinh Di Giáo.
Tất cả vạn pháp đều chịu sự vô thường
Đức Thế Tôn căn dặn: “Này các thầy Tỳ-khưu (Tỳ-kheo)! Như Lai nhắc nhở và căn dặn các thầy như vầy: Tất cả các pháp hữu vi đều không chắc thật, không bền vững. Tất cả các pháp hữu vi dầu thô thiển hay vi tế đều bị sự tác động của vô thường, biến hoại, đổi khác”.

Các sự vật có hình tướng đều chịu sự vô thường làm cho biến hoại (Ảnh minh họa)
Các pháp hữu vi là các pháp có hình tướng, do tạo tác mà nên, do nhân duyên hợp lại mà thành. Ví dụ như thân người, thân vật, cỏ cây, hoa lá, trăng, sao, mây, núi,... cho đến sóng từ trường, sóng điện thoại, dù mắt không nhìn thấy nhưng vẫn do tạo tác mà thành nên đều là các Pháp hữu vi.
Tất cả các pháp hữu vi đều không chắc thật, nghĩa là không cố định, không bền vững, chúng đều bị vô thường tác động làm cho biến hoại, đổi khác. Ví dụ, chúng ta lâu lâu soi gương thấy mình già, tóc bạc; khi học Phật Pháp, chúng ta biết rằng đó là mình đang già đi, đang biến đổi từng giây, từng phút. Chúng ta đang sống trong một dòng chảy mà tất cả thế giới, cả vũ trụ đang trôi chảy từng sát na, từ sinh đến trụ rồi hoại và diệt mất. Cho nên, người giác ngộ vô thường (thấy được rõ ràng từng sát na, từng nhỏ niệm, biến hoại của các pháp) cũng là chứng đạo.
Chúng ta làm thiện hay làm ác cũng đều là pháp hữu vi, đều không thường còn. Hành thiện pháp, được sinh làm thân người, sinh lên cõi trời nhưng rồi cũng có ngày hết phước sẽ vào vòng luân hồi sinh tử. Hay hành ác pháp thì đọa địa ngục nhưng hết tội địa ngục cũng lại tiếp tục luân hồi.
Hãy tinh tấn, rèn luyện thân, khẩu, ý thanh tịnh, làm sung mãn tứ vô lượng tâm
Đức Phật dạy tiếp: “Này các thầy tỳ-khưu (Tỳ-kheo)! Hãy tinh tấn chuyên niệm, chớ quên, chớ phóng dật, chớ giải đãi. Tử sinh là việc lớn. Hãy rèn luyện thân khẩu ý cho thanh tịnh. Hãy làm cho sung mãn tứ vô lượng tâm. Hãy qua khỏi bờ kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh trầm luân khổ đau sinh diệt nữa!”.
Tất cả vạn vật đều vô thường, biến hoại nên người đệ tử Phật cần thường xuyên quán về vô thường để nhàm lìa, yểm ly, không say đắm, không tham luyến, không dính mắc nặng nề với các pháp thế gian. Nếu hiểu được tất cả đều vô thường, đang trôi chảy, đi đến chỗ biến hoại, chúng ta sẽ bớt dần tham, dần dần tiến đến giải thoát.
Vì vậy, người tu phải nhớ luôn tinh tấn, chớ quên, chớ phóng dật (buông lung), chớ giải đãi (lười biếng), nhớ rằng sinh tử là việc lớn phải lo, làm sung mãn tứ vô lượng tâm và rèn luyện thân, khẩu, ý cho thanh tịnh để đến bờ Niết bàn.

Chư Tăng tinh tấn tu hành, thúc liễm thân tâm để sớm thoát khỏi luân hồi sinh tử
Lấy chính Pháp và Giới luật làm thầy
Khi biết Đức Thế Tôn sắp tịch diệt Niết bàn, một số Tỳ-kheo tâm còn phàm phu, không ngăn được sự ưu sầu, luyến tiếc đối với đấng Đạo Sư đã chảy nước mắt, khóc than vô cùng bi lụy. Với tâm bi mẫn, Đức Thế Tôn đã để lại những lời huấn thị với các Tỳ-kheo:
“Này các thầy Tỳ-khưu (Tỳ-kheo)! Hình như các thầy tưởng rằng khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ không còn ai là thầy dạy dỗ các thầy nữa chăng? Không phải thế đâu! Này các thầy Tỳ-khưu! Dầu Như Lai có diệt độ, nhưng Pháp và Luật ấy chính là thầy của các thầy, còn ở bên các thầy, làm nơi nương tựa và dẫn lối cho các thầy. Thế thì sầu thương, bi lụy có ích gì khi các pháp dẫu nhỏ nhiệm như mảnh lân hư trần, to lớn như núi Tu-di cũng đều phải bị vô thường biến hoại?”.
Đức Phật biết được tâm của các vị Tỳ-kheo nên đã dạy rằng, khi Ngài nhập diệt, giáo Pháp và Giới luật chính là Thầy của tất cả Tăng, Ni, Phật tử. Chúng ta sẽ y theo chính Pháp và Giới luật của Đức Phật để tu hành. Vì khi Đức Phật diệt độ, thông qua giáo Pháp, chúng ta mới hiểu được Phật, lời Phật dạy, hiểu được con đường hành đạo.
Giới Pháp dành cho hàng đệ tử xuất gia đã được Đức Như Lai chỉ dạy cặn kẽ trong bộ Lưỡng phân biệt. Nhân có tội và nhân vô tội, Đức Như Lai cũng đã từng thuyết minh chi li, rõ ràng. Thanh Văn Ba-la-mật tuệ, Đức Như Lai cũng đã nói. Tuệ giác đến bờ bên kia cho bậc Độc Giác và bậc Chính Đẳng Chính Giác, Đức Như Lai cũng đã từng tán dương. Và Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như y túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chính đạo, Thất quả, Bát định, Cửu định, Đức Như Lai cũng đã nhiều lần tuyên thuyết bằng những thời Pháp đoản ngôn, kệ ngôn, ví dụ, so sánh, giảng giải, phân tích,… khác nhau.
Người nào thông hiểu Pháp, chứng đạt Pháp được gọi là Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Đó cũng là người có căn cơ mẫn tiệp, kiến trúc vững chắc, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không xao động.
Cho nên Đức Phật nói, chính Pháp và Giới luật chính là Thầy của chúng ta, làm nơi nương tựa và dẫn lối cho chúng ta, chúng ta cần bám vào để tu tập, thực hành.
Đức Phật huyền ký các lần kết tập kinh điển sau này
Trước khi nhập Niết bàn, Đức Thế Tôn huyền ký lại các lần kết tập kinh điển về sau này. Lần kết tập kinh điển thứ nhất do Tôn giả Đại Ca Diếp mở hội trùng tuyên lại Pháp và Luật cho đầy đủ, tỏ rạng; nhằm nhắc nhở và mở mắt cho những Tỳ-kheo hư hỏng, phóng túng và những hoa ngôn, lộng ngữ xuyên tạc chính Pháp của chúng ngoại đạo. Khi Đức Phật huyền ký như vậy, Ngài Ca Diếp không có mặt ở đó mà khi Đức Phật nhập diệt rồi, Ngài Ca Diếp mới từ xa về. Đúng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn 100 ngày, Ngài Đại Ca Diếp cho tập hợp tất cả chúng Tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán, kết tập kinh điển trong một hang động.

Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất do Tôn giả Đại Ca Diếp làm chủ (Ảnh minh họa)
Đức Phật huyền ký, 100 năm sau khi Ngài nhập Niết bàn, có vị trưởng lão A La Hán Yassa Kananda vì hủy trừ lời nói của Tỳ kheo Vajjiputtaka mà mở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai, trùng tuyên trọn vẹn Tam Tạng Thánh điển.

Đại hội kết tập kinh điển lần 2 do Thánh Tăng Yassa Kananda làm chủ (Ảnh minh họa)
218 năm sau kể từ khi Như Lai diệt độ, có Tôn giả Moggalliputtatissa kết tập kinh điển lần thứ ba, loại bỏ tất cả tư tưởng lai tạp của ngoại giáo, giữ nguyên lời dạy chân truyền của Đức Phật. Sau đó nữa, Tỳ kheo Mahinda, một vị Thánh Tăng - hoàng tử con vua A Dục, đem ba tạng Kinh truyền chính Pháp vào xứ Tích Lan (nước Sri-Lanka ngày nay).
Vào khoảng 500 năm sau kể từ ngày Đức Phật nhập Niết bàn, xuất hiện vua Mi Lan Đà dùng những câu hỏi rất cao siêu, vi tế, sắc bén để vấn đạo, bức bách khiến các vị Sa-môn, Bà-la-môn trong toàn cõi Diêm Phù phải trốn vào rừng sâu. Khi ấy có một vị Tỳ-kheo tên Na Tiên, có trí tuệ siêu phàm sẽ giải đáp dễ dàng những câu hỏi cho đức vua. Nhờ vậy, Pháp và Luật của Như Lai được bảo lưu, truyền thừa lâu dài trên thế gian.

Những cuộc tranh luận trí tuệ giữa Tỳ-kheo Na Tiên và Đức vua Mi Lan Đà được kết tập lại thành kinh Mi Tiên Vấn Đáp
Xem thêm: Tổng hợp bài giảng Bộ kinh Mi Tiên Vấn Đáp của Thầy Thích Trúc Thái Minh
Trên đây là chia sẻ của Thầy Thích Trúc Thái Minh về lời dạy của Đức Phật trước khi nhập Niết bàn. Qua đó, chúng ta thấy được rằng, giữa biển khổ của cuộc đời, giáo Pháp và Giới luật chính là hải đảo bình yên để chúng sinh nương tựa; là kim chỉ nam dẫn đường đưa chúng sinh từ tối ra sáng, từ vô minh đến trí tuệ, đi đến giác ngộ giải thoát. Vì vậy, chúng ta theo lời Phật dạy, nương tựa chính Pháp và Giới luật chính là tự mình đem lại hạnh phúc cho mình và cho chúng sinh, không chỉ đời này mà còn đến nhiều đời về sau.
Quý bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về Đức Phật, lời dạy của Ngài tại chuyên mục Tu tập - Giác ngộ. Hoặc nếu có các thắc mắc, vui lòng bình luận tại bài viết, gửi về chuyên mục hỏi đáp hoặc liên hệ tại đây để được giải đáp. Kính chúc quý vị mạnh khỏe, an lạc!