Không thể bỏ qua: 04 câu chuyện về lòng từ bi của Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn
Mục Lục [Ẩn]
Ngày trăng tròn tháng hai, những người con Phật lại bâng khuâng nhớ nghĩ đến ngày Đấng Cha Lành nhập diệt. Đây là cũng lúc, chúng ta được ôn lại về cuộc đời hoằng Pháp độ sinh không nhàm mỏi của Ngài, đặc biệt là những câu chuyện trong giờ phút cuối cùng trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Kính mời các bạn cùng đón đọc trong bài viết dưới đây.
Câu chuyện Đức Phật thọ nhận món nấm độc
Cunda (hay Thuần Đà) là một người thợ sắt có lòng tôn kính Đức Phật. Một hôm, sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, Cunda sinh tâm hoan hỷ và liền xin ngày hôm sau được dâng vật thực cúng dường Ngài và chúng Tỳ-kheo.
Ngay đêm hôm ấy, ông cho sửa soạn tại nhà các món ăn thượng vị, đủ loại cứng mềm. Đặc biệt, ông còn tự mình vào rừng hái thật nhiều nấm về nấu một món nấm thật ngon dâng cúng dường.
Sáng hôm sau, Đức Phật và Tăng đoàn đến như lời hứa khả. Với tất cả lòng thành kính, ông dâng lên những món ăn thượng vị đã chuẩn bị. Riêng món cháo nấm, Đức Phật căn dặn ông Cunda chỉ để dành riêng cho Ngài và không cúng cho ai khác, số còn lại nên đem chôn.
Bởi Đức Phật biết, không một ai trong cõi trời, cõi người, ma giới hay phạm thiên giới có thể tiêu hóa được món ăn này, ngoại trừ Ngài. Điều này thể hiện lòng từ bi của Đức Phật - người làm Thầy luôn nhận hiểm nguy về mình và dành cho đệ tử những gì an lành.

Đức Phật thọ nhận bữa ăn cuối cùng từ ông Cunda (ảnh minh họa)
Một lúc lâu sau khi thọ thực, Đức Phật bị bệnh nặng, có triệu chứng tiêu chảy, đau đớn khốc liệt nhưng Ngài vẫn chính niệm, tỉnh giác, nhẫn nại, điều phục và chịu đựng đau bệnh. Sau đó, Ngài thuyết pháp cho Cunda nghe về phước báu từ sự cúng dường của ông hôm nay là vô cùng to lớn, nó sẽ trổ những quả lành, hạnh phúc cho ông.
Hành động này cho chúng ta thấy tâm từ bi của Đức Phật thật rộng lớn, giúp cho thợ sắt Cunda không lo lắng và bị nghi oan khi thấy mình cúng dâng Đức Phật “bữa ăn cuối cùng”.
Không chỉ vậy, Ngài lựa chọn nhập diệt bằng nhân duyên chịu bạo bệnh như để loại trừ quan điểm sai lầm của chúng sinh về sau rằng: người tu mắc bệnh sẽ không thể đắc đạo; người tu đắc đạo sẽ không mắc bệnh trước khi xả bỏ báo thân. Từ đó, tránh được cho họ những nhận xét không đúng, phạm đến người chân tu đắc đạo khi các vị ấy xả báo thân bằng những nhân duyên của riêng mình.
Câu chuyện Đức Phật 3 lần bảo tôn giả A Nan đi lấy nước ở dòng sông đục
Rời nhà ông Cunda, Đức Phật đi đến Kusinara. Trên đường đi, Ngài ngồi nghỉ dưới gốc cây và nói A Nan đi lấy nước uống. Dù tôn giả A Nan đã ba lần thỉnh Phật rằng nước sông do mới có 500 cỗ xe chạy qua, trở nên nông cạn và vẩn đục nhưng Đức Phật vẫn muốn A Nan đến lấy nước ở con sông đục đó.
Kỳ diệu thay, khi A Nan vừa đặt bình bát xuống nước thì dòng sông ngay lập tức trở nên trong vắt. Điều hy hữu nhiệm màu ấy chính nhờ từ năng lực công đức của Đức Phật.
Do còn là phàm Tăng nên A Nan chưa thể thấy biết hết về Đức Phật. Vì vậy, sự thị hiện tuyệt vời này của Ngài khiến A Nan được đầy đủ thanh tịnh tâm đối với Đức Phật, sau này kết tập kinh điển với trí nhớ siêu việt. Chính điều này đã khẳng định rằng: Bậc tu hành đắc đạo luôn đầy đủ phương tiện làm thanh tịnh tâm chúng sinh, không làm mất tín tâm của chúng sinh cho dù bị bạo bệnh.

Đức Thế Tôn chỉ dạy Ngài A Nan đi lấy nước ở dòng sông đục (ảnh minh họa)
Câu chuyện Đức Phật độ cho ngoại đạo xuất gia - vị đệ tử cuối cùng
Đến những giây phút cuối cùng trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn, có tu sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La 120 tuổi đến xin được gặp Ngài. Sợ làm phiền Phật, tôn giả A Nan và Tăng chúng ngăn cản, không cho Tu Bạt Đà La vào.
Thế nhưng, Đức Thế Tôn, dù rất mệt, vẫn lên tiếng cho Tu Bạt Đà La vào và khai thị cho ông những lời Pháp cuối cùng. Tu Bạt Đà La thấm nhuần lời Đức Phật, khắc sâu vào tâm trí, ông hoan hỷ, vui mừng khôn xiết, quỳ gập người, xin được xuất gia, thọ đại giới trở thành đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn. Rất nhanh sau đó, ông chứng đạt Thánh quả.

Đức Phật độ cho tu sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La trước khi nhập diệt (ảnh minh họa)
Câu chuyện về lời di giáo cuối cùng của Như Lai
Giữa hai cây Sa La hoa nở rực rỡ, Đức Thế Tôn nằm nghiêng lưng trên tảng đá bằng phẳng, đầu quay về phía Bắc, mặt quay về phía Tây. Chư Tỳ-kheo ngồi vòng quanh yên lặng như một rừng thiền định.
Đức Thế Tôn hỏi các đệ tử: Nếu ai còn phân vân hay nghi ngờ về đức Phật, đức Pháp, đức Tăng, đạo hay phương pháp thì hãy hỏi Đức Thế Tôn để được chỉ dạy.
Ngài lặp lại điều ấy, lần thứ 2, lần thứ 3, Tăng chúng vẫn giữ im lặng. Do vậy, Đức Phật biết rằng, trong chúng Tỳ-kheo, không còn một ai nghi ngờ hay phân vân gì đối với Tam Bảo nữa.
Và Thế Tôn căn dặn các Tỳ-kheo:
“Này các thầy Tỳ-kheo! Tất cả các pháp hữu vi đều không chắc thật, không bền vững. Tất cả các pháp hữu vi dầu thô thiển hay vi tế đều bị sự tác động của vô thường, biến hoại, đổi khác. Tất cả các pháp hữu vi, dù là thiện pháp, là phước tạo tác, cấu tạo nên thân tâm của người và trời; nói cách khác, là nhân sinh ra sáu cảnh trời dục giới hoặc được làm người có phước báu, sắc thân xinh đẹp, ít bệnh tật, ít khổ đau, nhưng nó cũng chẳng thường còn như ý nguyện mãi thế đâu!”
Cho nên: “Này các Thầy Tỳ-kheo! Hãy tinh tấn chuyên niệm, chớ quên, chớ phóng giật, chớ giải đãi. Tử sinh là việc lớn. Hãy rèn luyện thân, khẩu, ý cho thanh tịnh. Hãy làm cho sung mãn tứ vô lượng tâm. Hãy qua khỏi bờ bên kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh trầm luân khổ đau sinh diệt nữa!”
Cuối cùng, Thế Tôn động viên các đệ tử và nhắc về các lần kết tập Kinh điển sau này:
“Này các Thầy Tỳ-kheo! Dẫu Như Lai có diệt độ, nhưng Pháp và Luật ấy chính là Thầy của các ngươi, còn ở bên các ngươi, làm nơi nương tựa và dẫn lối cho các ngươi. Thế thì sầu thương, bi lụy có ích gì khi các Pháp dẫu nhỏ nhiệm như mảnh lân hư trần, to lớn như núi Tu Di cũng đều phải bị vô thường biến hoại”.
Sau 100 ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài Đại Ca Diếp sẽ cho kiết tập kinh điển lần thứ nhất. 100 năm sau, trưởng lão Yassa Kananda sẽ kết tập kinh điển lần thứ hai. Lần kết tập kinh điển thứ ba vào 218 năm sau đó, do tôn giả Moggalliputtatissa kết tập. 500 năm sau, có vua Mi Lan Đà dùng những câu hỏi rất cao siêu, vi tế, sắc bén để vấn đạo. Khi ấy có một vị Tỳ-kheo tên Na Tiên, trí tuệ siêu phàm sẽ giải đáp dễ dàng những câu hỏi cho đức vua. Nhờ vậy, Pháp và Luật của Như Lai được bảo lưu, truyền thừa lâu dài trên thế gian.

Đức Phật để lại những lời dạy cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn (ảnh minh họa)
Những lời di giáo thấm thía của Đức Phật thể hiện tình thương bao la vô bờ như tình thương của người cha với những đứa con trước khi từ biệt cõi đời. Cho đến hơi thở cuối cùng, lòng từ bi, yêu thương đối với chúng sinh là không vơi giảm, dù còn một giây, một phút vẫn tận tâm cống hiến, lo cho chúng sinh.
Qua 4 câu chuyện trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn, chúng ta càng thêm cảm phục trước đấng toàn giác vì lòng từ bi của Ngài quả thật là vô lượng. Tới giây phút cuối cùng trước khi nhập diệt, dù đau đớn bởi cơn bạo bệnh, Ngài vẫn độ cho chúng sinh; không phải chỉ mình ông Cunda, hay Đại đức A Nan mà là tất cả chúng sinh trong các kiếp vị lai, không phân biệt đẳng cấp, kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn.