Người Thầy “nuôi trồng” đạo hiếu cho muôn người
Mục Lục [Ẩn]
Được sự giáo dưỡng của bậc Minh sư là điều hạnh phúc hiếm có trên đời, vì người Thầy ấy không chỉ dạy cho chúng ta đạo đức, trí tuệ mà còn giúp chúng ta biết cách báo hiếu trọn vẹn cho cha mẹ.
Từ nơi tâm hiếu kính của mình, Thầy đã dẫn dắt cho muôn người từ đệ tử tại gia cũng như xuất gia thực hành hạnh hiếu như lời Đức Phật dạy, làm kim chỉ nam trên con đường cầu đạo Vô thượng Bồ đề trong kiếp vị lai!
Để hiểu thêm về người Thầy đáng kính - Thầy Thích Trúc Thái Minh, kính mời quý vị cùng đón đọc bài viết dưới đây!
“Vì muốn báo hiếu mẹ cha nên con xả tục xuất gia tu hành”
Thuở nhỏ, Thầy Thích Trúc Thái Minh khi còn là cậu bé Hiếu 8 tuổi, Thầy đã được bà nội cho đọc kinh chúa Ba chùa Hương - một tích truyện trong Phật giáo Việt Nam, nói về chúa Ba vì nghĩa lớn, muốn báo hiếu cha mẹ nên chúa Ba đã xuất gia tu hành. Vua Trang Vương không đồng ý nên đã gây khó khăn cho chúa Ba. Sau này khi vua Trang Vương gặp nạn và bị bệnh rất nặng; nhưng bệnh của vua muốn khỏi thì phải có tay và mắt của người rất là thân thiết. Khi đó, chúa Ba đã đi tu tại chùa Hương và biết được tin này, chúa Ba đã tự mình lấy mắt và cắt tay của mình, nghiền thành thuốc gửi về để cho vua Trang Vương chữa bệnh.
Đọc bài kinh này, trong tâm của Thầy dâng lên tình cảm thương yêu cha mẹ rất mãnh liệt và Thầy đã phát nguyện rằng: Nếu cha mẹ của con sau này có mắc bệnh, nếu cần phải tay và mắt của con thì con cũng xin nguyện sẵn sàng lấy mắt và tay của con làm thuốc chữa bệnh cho cha mẹ.
Có lẽ do tâm hiếu của Thầy đã được hun đúc nhiều kiếp về trước nên kiếp này, Thầy được ông bà thân sinh đặt tên là Vũ Minh Hiếu. Cái tên gắn với hạnh nguyện của Thầy nên luôn luôn trong lòng, Thầy rất biết ơn hai cụ thân sinh và trong tâm luôn trăn trở tìm cách để báo hiếu, đền đáp công ơn của hai cụ.
Khi đã biết đến đạo Phật, Thầy nghĩ đến lời Đức Phật dạy rằng: Cách báo hiếu cha mẹ được lớn lao nhất, đầy đủ nhất chính là phát nguyện xuất gia tu hành, chẳng những có thể độ được cha mẹ song thân hiện đời mà còn độ được cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp về trước. Với tâm hiếu hạnh và hiểu được phần nào lời Phật dạy nên Thầy đã phát nguyện xuất gia để đền đáp công ơn sâu dày của cha mẹ.
Nguyện trọn đời thực hành hạnh hiếu
Sau khi xuất gia, Thầy đã tiếp tục mang theo tâm hiếu của mình để làm lợi ích cho khắp nhân sinh.
Thực hành hạnh hiếu theo tấm gương của chư Phật
Khi đã dấn thân vào đạo, tu học Phật Pháp, Thầy được biết rằng tất cả chư Phật đều thực hành tâm hiếu hạnh. Trong kinh Vu Lan có kể chuyện Đức Phật Thích Ca cùng Thánh chúng, Tỳ-kheo đi trên đường thấy một đống xương khô. Khi đó, Đức Phật đã cúi xuống, lạy đống xương khô và Ngài dạy: Trong đống xương này có thân kiếp trước của cha mẹ của Ngài trong từ luân hồi vô thủy kiếp. Vì tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của chúng ta trong nhiều kiếp trước, cho nên chúng ta phải biết tri ân, sống ở trên đời nguyện làm những điều tốt đẹp cho mọi người, không khởi tâm ác hại một ai. Đó cũng chính là chúng ta thực hành hạnh hiếu với cha mẹ hiện đời và nhiều đời nhiều kiếp.
Đức Phật coi trọng chữ hiếu đến như vậy và bản thân Đức Phật cũng đã làm gương để dạy tất cả đệ tử với chữ hiếu này. Trong kinh có kể chuyện, sau khi Đức Phật đắc thành đạo quả, Ngài đã có thời gian trở về hoàng cung giáo hóa tất cả dòng họ Thích Ca quy y Tam Bảo (trong đó có vua cha Tịnh Phạn). Cho đến khi vua cha bị bệnh nặng, Đức Phật đã đích thân về hoàng cung chăm sóc cho vua cha, Ngài độ cho vua cha vào dòng quả giải thoát A-na-hàm. Sau khi vua cha nhập diệt, đích thân Đức Phật đã làm nghi thức tang vua cha và khênh quan tài của vua cha đi một đoạn đường khá xa đến lầu hỏa táng.
Khi đó, các đệ tử của Ngài xin vào khênh quan tài của vua Tịnh Phạn nhưng Đức Phật dạy rằng “Việc ấy để dành cho Ta”. Đức Phật là đấng tối tôn nhất trong vũ trụ, Ngài đích thân một mình khênh quan tài của cha thể hiện sự hiếu hạnh của Ngài.
Không chỉ Đức Phật Thích Ca mà tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều thực hành hiếu hạnh như vậy. Cho nên, Đức Phật dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật. Hạnh hiếu là hạnh Phật”. Từ chữ hiếu này mà chúng ta làm nên được tất cả, những người con hiếu thảo bao giờ cũng được sự hộ trì của chư Thiên và Thiện thần.
Từ tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật Thích Ca và với tâm hiếu hạnh của mình, dù Thầy còn có 6 anh chị em ruột trong nhà nhưng Thầy đã phát nguyện rằng: Sau này khi hai cụ thân sinh đau yếu thì dù công việc của chùa, Phật sự rất bận rộn, Thầy cũng sẽ dành thời gian để chính tay Thầy sẽ chăm sóc hai cụ. Đồng thời, Thầy cũng mong mỏi Phật tử cũng thực hành như thế để cùng với Thầy thực hiện chữ hiếu một cách chân thật, vì nói suông thì tâm hiếu không chân thật được.
Nguyện giúp mọi người trở thành người con có hiếu
Khi đã đi xuất gia, Thầy có nhân duyên được lắng nghe tâm tư của những người làm cha mẹ, và từ tâm rất xót thương với nỗi đau cùng tột của cha mẹ khi có người con bất hiếu, Thầy đã phát một nguyện: Thầy nguyện mãi mãi, đời đời sinh ra nơi đâu, Thầy cũng là người con có hiếu và giúp cho mọi người trở thành người con có hiếu.
Có thể nói, tình cảm đầu đời của tất cả chúng ta là tình cha mẹ đối với con cái và tình yêu thương của con cái đối với cha mẹ; gốc từ tình này sinh ra những tình cảm trong sáng, cao đẹp khác. Cho nên Đức Phật dạy: Hiếu là gốc của đạo. Trong kinh Đức Phật dạy: “Hiếu mà cảm đến trời thì mưa thuận gió hòa. Hiếu cảm đến đất thì muôn vật sinh sôi. Hiếu cảm đến người thì phước lành tăng trưởng”.
Một gia đình muốn an vui, một chòm xóm muốn bình yên cho đến một đất nước muốn chính khí được tốt đẹp thì đất nước ấy phải có những con người có tâm hiếu. Những người có tâm hiếu là những người sẽ tốt. Trong kinh Đức Phật dạy: Người có tâm hiếu, không đời này đời sau, người ấy sẽ được gặp chính Pháp, sẽ gặp những điều tốt lành, người thật tâm hiếu hạnh thì có chư Thiên, thiện thần gia hộ, còn người bất hiếu sẽ muôn đời khổ đau.
Lan tỏa tâm hiếu kính đến muôn người
Mọi việc thiện, mọi nghĩa cử cao đẹp của chúng ta đều bắt nguồn từ chữ hiếu. Ân nghĩa của cha mẹ là ân nghĩa đầu đời, cho nên cha mẹ là suối nguồn đầu tiên để sinh ra cái nghĩa trong đời này cho tất cả chúng ta. Người con nào hiếu thảo, biết báo hiếu cha mẹ thì người con đó mới là người tốt và có thể trở thành Phật tử, vì Đức Phật lấy “hiếu” làm tâm.
Vì thế, từ nơi tâm hiếu kính của Thầy, hằng năm tại chùa Ba Vàng đều tổ chức lễ Chúc thọ (ngày 8 tháng Giêng), lễ Tri ân “Nhớ về cội nguồn” (tháng 7 âm lịch) để tri ân, chúc thọ cha mẹ quý chư Tăng Ni, cũng là dịp để Phật tử thể hiện tâm hiếu kính với cha mẹ mình.
Không chỉ vậy, từ khi thành lập chùa đến nay, trong các buổi học Pháp thường kỳ ngày 8, 14, 30 (29 tháng thiếu) âm lịch hàng tháng, thông qua các bài kinh Phật dạy như Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện, kinh Mi Tiên vấn đáp, Kinh Hiền nhân,… Thầy cũng giảng giải về đạo hiếu để hai hàng xuất gia, tại gia hiểu được hạnh hiếu của chư Phật, Bồ Tát, từ đó vun bồi đức hạnh, thực hành hạnh hiếu như lời Phật dạy để mang lợi ích cho bản thân, gia đình và đất nước.
Đặc biệt đối với thế hệ trẻ, Thầy rất chú trọng vun bồi tâm hiếu cho các bạn, đồng thời xây dựng đạo đức và trí tuệ thông qua các câu chuyện hiếu hạnh trong các buổi giảng tại Khóa tu mùa hè (dành cho độ tuổi từ 7 đến dưới 30 tuổi) và Khóa tu Khám phá vườn tâm (dành cho sinh viên các trường Đại học phía Bắc), để các bạn phần nào nhận thức được tâm hiếu của mình và thực hành tâm hiếu của mình với cha mẹ.
Quả thật là, từ những bài giảng của Thầy, không chỉ các Phật tử mà các bạn nhỏ đã biết nhận ra lỗi của mình, biết xin lỗi cha mẹ; từ đó mà các bạn biết thương kính cha mẹ nhiều hơn, biết chủ động giúp đỡ việc nhà cho cha mẹ, học hành chăm ngoan hơn.
>>> Đọc thêm tại các link:
Con trở thành người con đúng nghĩa nhờ Thầy Thích Trúc Thái Minh
“Con biết ơn Sư Phụ đã giúp con nhận ra cha mẹ rất quan trọng với con…”
Lời giảng về đạo hiếu của Sư Phụ đã “chạm” đến trái tim con…
Bên cạnh đó, hòa trong dòng chảy tri ân và đền ân của những người con Phật, các Phật tử, các bạn nhỏ còn thực hành rửa tay chân cho cha mẹ tại gia để phần nào báo hiếu công đức sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đã vì mình mà không quản ngày đêm chăm sóc, lo lắng, quan tâm, nuôi dưỡng mình từ khi tấm bé đến lúc trưởng thành.
Đặc biệt hơn, một số Phật tử từ nơi tâm hiếu của mình, nhất tâm nương tựa Tam Bảo, thực hành tu tập Phật Pháp, giúp cho cha mẹ thoát “án tử”, chuyển hóa nghiệp bệnh mà bệnh viện đã bó tay, trả về. Đó là câu chuyện của chị Phạm Thị Trà My - đạo tràng Minh Tuệ - Nam Từ Liêm Hà Nội với lòng hiếu thuận đã nương tựa Tam Bảo, tu tập Phật Pháp giúp mẹ chồng là Nguyễn Thị Kim Vân vượt qua bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn tụ cầu vàng khi sự sống chỉ còn 5% hy vọng.
>>> Câu chuyện của người "trở về từ cõi chết"
Hay câu chuyện của Lê Thị Thanh Lương - đạo tràng Trúc Độ Long Biên Hà Nội, khi mẹ của chị đứng ở ngã cửa tử, cùng lúc bị ung thư cổ tử cung và ung thư đại tràng, cùng với sự trợ duyên của đạo tràng, chị và các chị em của mình đã cùng tu tập, phát tâm làm các việc thiện lành hồi hướng cho mẹ. Nhờ vậy mà mẹ chuyển hóa bệnh ung thư, hoàn toàn khỏe mạnh trong sự ngỡ ngàng của mọi người.
>>> Chữa Khỏi Bệnh Ung Thư Đại Tràng Bằng Tâm Linh!
Trên đây là hai câu chuyện tiêu biểu trong rất rất nhiều câu chuyện chuyển hóa như thế. Hiện tại, mẹ của hai Phật tử Trà My và Thanh Lương đều đã trở thành Phật tử, trở thành bạn đồng tu của con mình. Có thể nói, chính từ tâm hiếu kính của những người con mà cha mẹ được kết duyên với Tam Bảo, biết bỏ ác làm lành, tu theo chính Pháp của Phật. Đó cũng chính là lời chư Phật dạy về cách báo hiếu cha mẹ trọn vẹn để cha mẹ được hạnh phúc trong hiện tại và các kiếp vị lai.
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, mỗi chúng ta hãy cùng hướng tâm tri ân Thầy Thích Trúc Thái Minh - Người Thầy đã giúp cho không chỉ chúng ta mà biết bao người thực hành hạnh hiếu, đó là biết quy y Tam Bảo, thực hành điều thiện lành như lời Phật dạy để mang lợi ích cho bản thân và gia đình.
Mong nguyện từ tâm hiếu của Thầy, trong hiện tại và mai sau sẽ có vô số người thực hành hạnh hiếu mang lại lợi ích cho bản thân và chúng sinh, khiến Phật Pháp được trụ lâu dài ở thế gian.