0
1

Kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân (trích kinh Vu lan)

Văn kinh, 09/12/2019 15:10
0
1

Tôi nghe thế này: Một thời Phật ở trong Tinh Xá, vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, cùng các Tăng già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người, cùng chư Bồ Tát. Bấy giờ Thế Tôn, cùng với Đại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô, chất cao như núi, Đức Phật Thế Tôn, liền sụp lạy ngay, đống xương khô ấy.

Tôi bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi, chí Tôn, chí Quý, Thầy cả ba cõi, cha lành bốn loài, thiên thượng nhân gian, thảy điều tôn kính, sao Ngài lại lễ, đống xương khô kia.

Này A Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia, theo Ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, đã rộng rãi đâu, những sự nghe thấy, đống xương khô ấy, hoặc là ông bà, hay là mẹ cha, của Ta thân trước, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay Ta, chí thành kính lễ. Ông đem xương này, chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho Ta.

Bạch Đức Thế Tôn! Con xem ở đời, phàm là con trai, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới; Những người con gái, ai cũng nhận ra, đó là giới nữ; người chết quá khứ, xương lẫn lộn nhau, chúng con biết đâu mà phân biệt được.

Đức Phật dạy rằng:
“Này A Nan con! Về bên nam giới, thì xương sắc trắng, nhấc thấy nặng hơn. Còn như nữ giới, trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình, chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sữa ở trong thân, giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.”

Tôi nghe Phật nói, thương xót vô cùng, mẹ tôi đã từng, hao mòn như thế, nghĩ mà rơi lệ, liền bạch Phật rằng:
Lạy Đức Thế Tôn! Công ơn cha mẹ, như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Đức Phật rủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.

Đức Phật liền dạy: Này A Nan ơi! Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng, đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết:
– Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương, dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng; trưa đã tiêu tan, khó lòng giữ được.
– Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
– Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
– Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
– Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
– Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi, thân hình và ý.
– Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi, những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
– Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
– Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người, ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi, gồm có ba quả: Một là Tu Di, hai là núi Nghiệp, ba là núi Máu, núi này đồng thời, hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.

Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần vẹn toàn, mới đến ngày sinh. Nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ, nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi, buốt chói từng hồi, khiến đau lòng mẹ, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, mẹ khổ vô cùng, nói sao cho xiết, sinh được thân này, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay!

Phật bảo A Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con phải lo báo hiếu. Những gì là mười?
– Một nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
– Hai nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
– Ba nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, quên cả lo âu.
– Bốn nhớ ơn mẹ ta, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngọt, dành dụm cho con.
– Năm nhớ ơn mẹ ta, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
– Sáu nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
– Bảy nhớ ơn mẹ ta, giặt giũ hong phơi, áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi, mẹ đành cam chịu.
– Tám nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một chút không ngơi.
– Chín nhớ ơn mẹ ta, vì sinh nuôi con, mà mẹ cam lòng, tạo bao ác nghiệp.
– Mười nhớ ơn mẹ ta, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không chút nào ngơi.

Thứ Nhất Ơn:
Chín Tháng Mười Ngày Cưu Mang Nặng Nhọc
Bao kiếp duyên cùng nợ
Ngày nay mới vào thai
Đầy tháng sinh phủ tạng
Bảy bảy sáu tinh khai
Thân trọng như non Thái
Động tĩnh sợ phong thai
Áo the đành xốc xếch
Gương lược biếng trang đài.

Thứ Hai Ơn:
Khi Gần Sinh Nở
Khi gần ngày sinh nở
Nặng nhọc khổ sở thay
Cưu mang trong mười tháng
Vất vả biết bao ngày
Đứng ngồi và đi lại
Dáng vẻ tựa ngô ngây
Sợ hãi lo cùng lắng
Tử sinh giờ phút này.

Thứ Ba Ơn:
Lúc Sinh Nở Mẹ Ta Khi Sinh Nở
Thân thể đều mở toang
Tâm hồn như mê mẩn
Máu me chan hòa đầy
Chờ nghe thấy con khóc
Lòng mẹ mừng rỡ thay
Đương mừng lo lại đến
Rầu rĩ ruột gan nàỵ

Thứ Bốn Ơn:
Ăn Đắng Nhả Ngọt
Mẹ ta lòng thành thực
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc
Ăn đắng nói cùng ai
Yêu dấu như vàng ngọc
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con no ấm
Mẹ đói rét cũng vui.

Thứ Năm Ơn:
Xê Con Tự Thấp
Tự mình nằm chỗ ướt
Chỗ ráo để xê con
Hai vú phòng đói khát
Hai tay ủ gió sương
Thâu đêm nằm chẳng ngủ
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ
Lòng mẹ mới được yên.

Thứ Sáu Ơn:
Bú Mớm Nuôi Nấng
Đức mẹ dày như đất
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng
Cha mẹ cũng thế thôi
Chẳng quản câm, mù, điếc
Chẳng hiềm quắp chân tay
Bởi vì con ruột thịt
Trọn đời dạ chẳng khuây.

Thứ Bảy Ơn:
Tắm Gội Giặt Giũ
Vốn người có nhan sắc,
Lại thêm phấn sáp xông
Mày xanh như liễu lục
Má đỏ tựa sen hồng
Giặt giũ khăn cùng tã
Dáy dơ chẳng quản công
Cốt sao quần áo sạch
Búi tóc gọn là xong.

Thứ Tám Ơn:
Đi Xa Lòng Mẹ Nhớ Thương
Từ biệt lòng khôn nhẫn
Sinh ly dạ đáng thương
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn quê hương
Ngày đêm thường tưởng nhớ
Sớm tối vẫn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường.

Thứ Chín Ơn:
Vì Sinh Con Mà Cam Lòng Tạo Bao Ác Nghiệp
Mẹ trải bao gian khổ
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo
Mẹ đói rách cũng vui
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người.

Thứ Mười Ơn:
Mẹ Trọn Đời Thương Yêu Con
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa biển trời
Vắt cạn kiệt dòng sữa
Để cho con tươi cười
Mẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi
Bao giờ ân oán hết
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi.

Có những người con, mang tâm bất hiếu, chẳng nghĩ công ơn, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa thu mùa đông, rét run bức bối, chẳng lo sớm tối, ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt mười non, dầy vò chửi giả, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, con nào hỏi han, gái trai tránh né, mặc thây cha mẹ, đêm ngày thở than.

Nếu là con trai, mang tâm bất hiếu, khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng rằng e, sợ kẻ cười chê, ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, vâng đúng như lời, cha mẹ hết hơi, không hề hối cải.

Nếu là con gái, mang tâm bất hiếu, khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo, khi đã gả bán, về ở nhà người, một ngày một lười, nhà ngoại không thiết, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dụ mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận giữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành lòng cam chịu, bạn bè thất thểu, tình nghĩa keo sơn, tỏ ra chăm chú, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình.

Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lìa, làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín càng không, tuyệt vô tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi, công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.

Khi ấy đại chúng, nghe Phật mới ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái, nghe rồi sợ hãi, hối hận vô cùng, cảm động rưng rưng, khôn cầm nước mắt, lòng đau như cắt, tâm trí rối bời, đang từ chỗ ngồi, cùng nhau đứng dậy, hướng Phật mà lạy, rồi nói lời này: Khổ thay! Khổ thay! Đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối, ngày nay biết hối, thì sự đã rồi, đau đớn lòng tôi, trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ơn đức mẹ cha.

Đức Phật liền bảo, cặn kẽ mọi lời, này chúng sinh ơi! Muốn đền ơn nghĩa:
– Một vì mẹ cha, nên chép kinh này, kính biếu đó đây, cho nhiều người tụng.
– Hai vì mẹ cha, đọc tụng kinh này, hàng ngày chớ bỏ.
– Ba vì mẹ cha, làm chay sám hối, sớm tối ăn năn.
– Bốn vì mẹ cha, cúng dàng Tam Bảo, tùy ý sở dùng.
– Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày trai, phải nên nhớ giữ.
– Sáu vì mẹ cha, thường hay bố thí, làm mọi việc lành.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được mẹ cha.
Khi ấy A Nan, liền bạch Thế Tôn: Con lạy Đức Phật! Đây là Kinh gì? Chúng con muốn trì, tụng được hay chăng?

Đức Phật dạy rằng: Chúng con nên biết, Kinh này là Kinh: Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân Chi Kinh. Tất cả chúng sinh, thảy đều nên tụng, khi ấy đại chúng, nghe Phật nói rồi, tin kính phụng hành, lễ tạ mà lui.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!

1
CHIA SẺ
Bình luận (0)

Đọc thêm