0
1

Kinh Hàng Ma

Văn kinh, 23/8/2020 21:51
0
1

Như vầy tôi nghe. Một thời Tôn giả Mahāmoggallāna trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumāragira, rừng Bhessakalāvana, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahāmoggallāna đang đi kinh hành ngoài trời.

Khi ấy Ác ma đi vào bụng Tôn giả Mahāmoggallāna, ở trong bao tử. Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna nghĩ như sau: “Nay sao bụng của ta lại nặng nặng như có gì chồng chất quá đầy?” Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào tự viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.

Sau khi ngồi, Tôn giả Mahāmoggallāna tự chánh niệm. Tôn giả Mahāmoggallāna thấy Ác ma, sau khi đi vào trong bụng, đang ở trong bao tử. Thấy vậy, Tôn giả liền nói với Ác ma:
– Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!

Rồi Ác ma suy nghĩ: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiều Như Lai, và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài.” Chính vị Bổn sư cũng chưa biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna lại nói với Ác ma như sau:
– Này Ác ma, ta biết ngươi. Đừng có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta.” Ngươi là Ác ma. Này Ác ma, ngươi nghĩ như sau: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!” Chính vị Bổn sư cũng không biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”

Rồi Ác ma suy nghĩ như sau: “Vị Sa-môn này biết ta, thấy ta và nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài"".

Rồi Ác ma từ miệng Tôn giả Mahāmoggallāna bước ra, và đứng dựa nơi cửa miệng. Tôn giả Mahāmoggallāna thấy Ác ma đứng dựa nơi cửa miệng, bèn nói Ác ma:
– Ác ma, ở đây, ta cũng thấy ngươi. Ngươi chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không thấy ta”. Này Ác ma, nay ngươi đang đứng dựa nơi cửa miệng.

Này Ác ma, thuở xưa, ta là Ác ma tên là Dūsī, và chị ta tên là Kālī. Ngươi là con trai chị ta. Như vậy ngươi là cháu ta.

Này Ác ma, lúc bấy giờ, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có hai vị đệ tử tên là Vidhura, và Sañjīva, hai bậc tối thượng, hai bậc Hiền giả. Này Ác ma, đối với các vị đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác không một ai ở đây có thể bằng Tôn giả Vidhura về thuyết pháp. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Vidhura được gọi là Vidhura (Vô Song). Còn Tôn giả Sañjīva là vị đi rừng, đi gốc cây, đi các chỗ không người và chứng Diệt thọ tưởng định không khó khăn gì.

Này Ác ma, thuở xưa, Tôn giả Sañjīva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sañjīva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây, thấy vậy liền nói với nhau như sau: “Thật vi diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi. Chúng ta hãy hỏa táng ngài!” Rồi này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành liền thâu lượm cỏ, củi và phân bò chồng lên thân Tôn giả Sañjīva, đốt lửa và bỏ đi.

Này Ác ma, Tôn giả Sañjīva, sau khi đêm ấy đã tàn, liền xuất định, phủi áo, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào làng khất thực. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sañjīva đang đi khất thực, thấy vậy liền nghĩ: “Thật vi diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi, nay được sống lại”. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Sañjīva được xưng danh là Sañjīva, Sañjīva.

Này Ác ma, rồi Ác ma Dūsī nghĩ như sau: “Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp này. Vậy nay ta hãy nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: “Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu hại bởi các người, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ.”

Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh như sau: “Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con cú đậu trên cành cây, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”. Và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con giả can trên bờ sông, khi đang rình cá; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con mèo ngồi bên đống rác, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền”; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con lừa, gánh nặng được đặt xuống, đang tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”, và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền". Này Ác ma lúc bấy giờ, phần lớn những người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, những Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī nhập vào và nói: “Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các người, các vị ấy có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”.

Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân; biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi…; biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ…; biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

Rồi Ác ma, các Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ không vắng, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân; biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi…; biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ…; biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

Này Ác ma, rồi Māra Dūsī suy nghĩ như sau: “Làm như vậy, ta không thể biết chỗ đến hay chỗ đi của các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Vậy ta hãy nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: “Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh này. Do được tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”.

Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói: “Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”. Rồi này Ác ma, những Bà-la-môn gia chủ, bị Ác ma Dūsī xâm nhập, tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Này Ác ma, sau một thời gian những vị này mạng chung và phần lớn sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới và đời này.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī xâm nhập và nói như sau: “Các ngươi hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”. Này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy sống quán bất tịnh trên thân, quán tưởng nhàm chán đối với các món ăn, quán tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành”.

Và này Ác ma, những Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ trống vắng, sống quán (tánh) bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, buổi sáng đắp y, mang y bát, với Tôn giả Vidhura là thị giả, đi vào làng để khất thực.

Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào một đứa trẻ, cầm một hòn đá, đánh trên đầu Tôn giả Vidhura khiến bể đầu. Rồi này Ác ma, Tôn giả Vidhura với đầu bị bể và với máu chảy, vẫn đi sau lưng Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nhìn xung quanh với cái nhìn con voi chúa1 và suy nghĩ như sau: “Thật vậy, Ác ma Dūsī không biết sự vừa phải”. Này Ác ma, khi Thế Tôn nhìn xung quanh, thì Ác ma Dūsī liền từ chỗ ấy từ trần và sinh vào cõi địa ngục.

Này Ác ma, địa ngục ấy được ba tên gọi: Sáu xúc xứ địa ngục, Thiết qua địa ngục, Biệt thọ khổ địa ngục. Rồi các người giữ địa ngục đến ta và nói như sau: “Này Tôn giả, khi cọc sắt sẽ gặp cọc sắt trong tim của ngươi, ngươi mới hiểu như sau: “Ta sẽ bị trụng nước sôi một ngàn năm ở địa ngục.”

Và ta, này Ác ma, ta bị trụng nước sôi, trải nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong địa ngục. Trải qua một vạn năm trong đại địa ngục ấy, ta bị nấu sôi và cảm thọ cảm giác gọi là Vutthanima. Do vậy, này Ác ma, thân của ta là như vậy, thân như con người, và đầu ta là như vậy, đầu như con cá.

1. Địa ngục ấy thế nào,
Dūsī bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
2. Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt,
Địa ngục là như vậy,
Dūsī bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
3. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
4. Dựng lên giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu,
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.
5. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
6. Ai Thế Tôn khuyến khích,
Được chư Tăng chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển,
Lâu đài Migara!
7. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
8. Với ngón chân rung chuyển,
Lâu đài Vejayanta,
Đầy đủ thần thông lực,
Chư Thiên cũng hoảng sợ.
9. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
10. Ai hỏi vị Sakka,
Tại Vejayanta,
Hiền giả, người có biết,
Chứng ái tận giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
11. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
12. Ai từng hỏi Phạm Thiên,
Tại hội chúng Thiện pháp:
“Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng,2
Phạm Thiên, cảnh Thiên giới?”
13. Brahma đã chân thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
“Tôn giả, tôi không chấp,
Các tà kiến thuở xưa!
14. Tôi thấy sự huy hoàng,
Phạm Thiên, cảnh Thiên giới,
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường tại?”
15. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
16. Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao sơn đảnh,
Rừng3 Đông Videha,4
Và người nằm trên đất.5
17. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
18. Thật sự lửa không nghĩ:
“Ta đốt cháy kẻ ngu”,
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
19. Cũng vậy, này Ác ma,
Ngươi đột kích Như Lai,
Tự mình đốt cháy mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.
20. Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng, Ác ma,
“Ác quả không đến ta”.
21. Điều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo!
22. Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại Bhesakalā,
Vị Dạ xoa thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.

Nguồn: Kinh Tạng Nam Truyền, Trung Bộ Kinh 1, Phẩm Tiểu Song Đối, Kinh Hàng Ma, tr.580

Chú thích:
- Sakka: Đế Thích
- 1: Nghĩa là không phải xoay cổ phía này phía kia mà xoay toàn thân.
2: Nghĩa là hào quang của Ngài Sāriputta, Moggallāna, Mahākassapa... Khi các vị này ngồi trong hào quang của đức Phật, tại Phạm Thiên giới.
- 3: MN-a 2.423 [MN-a 49] Jambudipa (Ấn-độ).
- 4: Tây Ngưu Hóa châu.
- 5: Chỉ cho người ở Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Cu-lô châu.

1
CHIA SẺ
Bình luận (0)

Đọc thêm